Chuyển đến nội dung chính

Thời vàng son của mỹ phẩm Thorakao

 Những phụ nữ ở Sài Gòn trước năm 1975, có lẽ là không ai không biết tới  mỹ phẩm  Thorakao. Đây có lẽ là sản phẩm nội địa hiếm hoi của Sài Gòn từ thập niên 1960 vẫn còn hoạt động sản xuất cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng như nhiều thương hiệu Việt khác, Thorakao đã bị quốc hữu hóa sau năm 1975 và dần lụi tàn. Khi thương hiệu Thorakao được gầy dựng lại từ đầu vào giữa thập niên 1980 (thời kỳ Đổi Mới) thì lại khó cạnh tranh được với hàng ngoại vào lúc Việt Nam bắt đầu mở cửa cho hàng loạt nhãn hiệu mỹ phẩm nổi tiếng thế giới vào Việt Nam và chiếm lĩnh thị trường từ thập niên 1990.

Có lẽ hầu hết mọi người đều thắc mắc về cái tên rất lạ và cũng thú vị của nhãn hiệu Thorakao. Cách giải thích chính thức về ý nghĩa nó như sau: Chữ Tho trong đạo Tin Lành nghĩa là Thiên Thần, Kao là Kem, Ra là ánh sáng. Như vậy Thorakao nghĩa là dùng kem sẽ toả sáng như một Thiên thần.

Với ý nghĩa thương hiệu đó, Thorakao có thiết kế logo là hình ảnh một tiên nữ Hy Lạp cách điệu.


Thời vàng son của Thorakao là thập niên 1960, thành công có được không phải chỉ là nhờ cách “chào hàng” độc đáo của bà chủ Lan Hảo, mà là nhờ giá cả cạnh tranh, đặc biệt là chất lượng của sản phẩm thật sự tốt, được nghiên cứu chiết xuất từ các loại thảo mộc thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam, theo các biện pháp của dân tộc cổ truyền.

Ông chủ hiện nay của nhãn hiệu  Thorakao là ông Huỳnh Kỳ Trân – con rễ của bà Lan Hảo – cho biết: “Y học cổ truyền điều gì cũng có nguyên lý của nó. Chẳng hạn như trái dừa giống hình hộp sọ và có tơ trên đó, rất giống tóc, bởi vậy, dầu dừa rất tốt cho tóc. Hay trái bắp có râu rất giống với lông nách, nên râu ngô có công dụng trị hôi nách rất hiệu quả”.

Đến năm 1961, kem Lan Hảo đổi tên thành Thorakao, mở rộng thêm nhiều loại sản phẩm khác như dầu gội đầu hoa hồng, xà bông thơm, cạnh tranh với những thương hiệu xà bông nội địa đã có lâu năm của ông Trương Văn Bền (xà bông Việt Nam, Cô Ba). Công ty nhanh chóng mở rộng ra toàn miền Nam và có chi nhánh ở Cao Miên, xuất khẩu sang nhiều nước ở Đông Nam Á. Tuy nhiên đến năm 1975, khi Thorakao bị “quốc hữu hoá” thì đã dần lụi tàn một cách đáng tiếc. Đến năm 1987, khi Việt Nam thực hiện “đổi mới”, khuyến khích tư nhân quay lại sản xuất, lúc đó ông Trân nghỉ nghề giảng viên, cùng vợ khôi phục lại thương hiệu Thorakao, và đối mặt với đối thủ là rất nhiều thương hiệu  mỹ phẩm nổi tiếng toàn thế giới.

Ông Trân cho biết đây là thời gian khó khăn nhất của thương hiệu Việt này. Thời kỳ đầu “mở cửa”, tâm lý sính ngoại của người Việt lên cao, hàng hà sa số nhãn hiệu ngoại nhập về với bề ngoài bắt mắt, hơn hẳn đồ nội được sản xuất thủ công, kỹ thuật in ấn còn lạc hậu, không theo kịp các xu hướng của thế giới. Vậy là sau 30 năm kể từ ngày thành lập, kem Thorakao lại phải quay lại với bài toán kêu gọi người dùng sử dụng sản phẩm, có lúc vài tuần liền không bán được hộp kem nào. Tình trạng ế ẩm kéo dài 2 năm cho tới khoảng 1989-1990, khi Soviet sụp đổ, nước Nga chuyển sang cơ chế thị trường, hàng mỹ phẩm Việt bất ngờ được người Nga ưa chuộng. Chớp lấy thời cơ này, Thorakao dồn vốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Nga, từ đó làm bàn đạp để xuất sang nhiều thị trường khác trên thế giới, kể cả các nơi nổi tiếng khó tính như Mỹ, Nhật, Dubai…

Khác với nhiều thương hiệu Việt khác, hiện nay các sản phẩm của Thorakao chủ yếu được bán ở nước ngoài, với tỉ lệ sản phẩm bán trong nước chỉ bằng 1/10 sản phẩm xuất khẩu, và tỉ lệ doanh số trong và ngoài nước là 30-70, nghĩa là doanh số nội địa là rất thấp. Sự nghịch lý này được giải thích là do thói quen, hành vi tiêu dùng của người Việt, vốn đã quen thuộc với các thương hiệu ngoại với bề ngoài bắt mắt.

Qua nhiều biến động, thăng trầm, nhiều công ty, thương hiệu Việt từ trước năm 75 đến nay đều phá sản hoặc chuyển sang lĩnh vực khác. Trong số ít thương hiệu còn tồn tại, Thorakao là cái tên hiếm hoi bám trụ nhờ có thị trường riêng và tỉ lệ tăng trường ổn định 15% hàng năm. Cho đến nay, thương hiệu Thorakao còn lưu lại một ký ức rất tươi đẹp trong trí nhớ những người Sài Gòn xưa, từng sống vào một giai đoạn vàng son của “hòn ngọc viễn đông”.




Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...