Chuyển đến nội dung chính

Nhà nghiên cứu triết học Trần Văn Toàn: “TRIẾT HỌC THÌ DÙNG LÀM GÌ?”

 Trần Văn Toàn sinh năm 1931 tại Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình. Bảo vệ cao học về thần học Công giáo (1954) và tiến sĩ triết học (1960). Ông từng dạy luận lý học, triết học, lịch sử khoa học và thần học Công giáo tại: ĐH Huế và thỉnh giảng ĐH Sài Gòn, Đà Lạt trong các năm 1960-1965; ĐH Công giáo Lovanium / Kinshasa/ Congo, 1965-1973; ĐH Công giáo Lille (Pháp), 1973-1996. Ông cũng dành thời gian nghiên cứu K.Marx và các triết gia vô thần, cũng như nghiên cứu về triết lý và lịch sử khoa học (philosophie et histoire et des sciences). Nhân cuốn sách Hành trình vào triết học - cuốn “hành trình” đầu tiên do chính người Việt viết (?) - được tái bản sau 44 năm, chúng tôi có cuộc trò chuyện với ông, không chỉ về cuốn sách này.

Trần Văn Toàn tại quê hương Phát Diệm, 2006.


     Tại Việt Nam, ông được độc giả quan tâm nhiều nhất, có lẽ là cuốn sách mỏng Tìm hiểu triết học Karl Marx (Nam Sơn, Sài Gòn, 1967) – bởi tính khách quan của nó. Sau hơn 40 năm, đáng lẽ cuốn này nên được tái bản đầu tiên, nhưng thực tế thì chưa. Xin hỏi, là người học bài bản về thần học, lúc ấy ông viết cuốn này vì lý do gì?

     Về vấn đề tư tưởng, thì năm 1954, sau khi học xong cử nhân triết học ở ĐH Công giáo Louvain (Bỉ), với tiểu-luận-văn về một triết gia duy linh, thì đất nước chia đôi, tôi thấy cần phải nghiên cứu về K.Marx, để hiểu cho đúng, một là vì miền Bắc đi theo chủ nghĩa Marx, hai là vì tôi cũng đã được mấy giáo sư ở Louvain chuyên môn về Marx chỉ dẫn cho. Vào thời đó nhóm sinh viên Việt Nam ở Louvain, trong đó có ông bạn Lý Chánh Trung, đã có học tập với nhau về tư tưởng của Emmanuel Mounier, có khuynh hướng xã hội, dân chủ, nhân bản. Về hai điểm này chúng tôi thấy gần Marx. Vẫn biết là ông vô thần, nhưng ở Âu châu người ta đã tách rời tôn giáo với chính trị, cho nên tôi không thấy vấn đề là nan giải. Trong khi soạn luận văn tiến sĩ, tôi có làm việc ít lâu ở Viện Nghiên cứu xã hội (Institut fuer Sozialforschung) tại Frankfurt (Đức). Từ đó trở đi tôi vẫn để ý tìm hiểu vấn đề xã hội, đồng thời chú trọng đến vận mệnh con người cá nhân, có nhân cách, cần được bảo vệ. Ngoài ra tôi cũng nghiên cứu chủ trương vô thần của Marx và của một số triết gia khác, như Feuerbach, Nietzsche, v.v..  Dĩ nhiên là vẫn giữ lập trường phê bình. Có một điều mà ít ai để ý là: chính Marx cũng luôn giữ lập trường phê bình như thế, vì phần lớn các bài vở hay sách vở ông viết, đều lấy đầu đề là “phê bình”.

     Độc giả trẻ ngày nay chưa có dịp để đọc lại cuốn sách này quả là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, Hành trình vào triết học – thì có những lý thú riêng của nó, bởi tính bao quát, tường minh và dễ tiếp cận hơn. Lý do của việc tái bản cuốn sách này thì ông đã viết trong “Lời nói đầu”; chỉ xin hỏi, theo ông, những cuốn sách tương tự như thế này sẽ giúp ích gì cho những độc giả trẻ thời nay?

     Triết học thì dùng làm gì? Vấn đề không phải là để biết nhiều hệ thống tư tưởng Đông - Tây, vì giữa các môn phái có thể có nhiều cái khác nhau và mâu thuẫn nhau. Nhồi sọ như thế, ngoài mục đích dạy học, thì có lẽ là vô ích đối với cá nhân, mà còn có thể sa vào cái bệnh “ngộ chữ”. Có người rất uyên bác, biết nhiều, viết nhiều, dạy nhiều, ví dụ những người đọc hay là soạn tự điển triết học, nhưng khó mà biết họ tin cái gì là phải. Cho nên giáo sư triết học chưa chắc đã là triết gia, mà triết gia chưa chắc đã là giáo sư triết học. Vấn đề không phải là học lấy một giáo điều, hễ có bậc thượng trí anh minh sáng suốt nào lên tiếng thì mình phải theo. Vấn đề là xem người xưa suy nghĩ, đặt vấn đề nhân sinh như thế nào, lý sự làm sao, để rồi mình suy nghĩ lấy cho mình, lấy cái lý mà xét, mà phê bình, tự phê bình, để tìm ra cái phải điều trái. Đó là lối triết lý của người Âu châu, đã bắt đầu từ Hy Lạp thời thượng cổ: họ bắt đầu bằng những bài đối thoại của Platon, chứ không bắt đầu từ câu “Tử viết”.

     Có tính chất “tiếp thị” trực tiếp hơn một chút, nếu phải nói riêng với độc giả trẻ của cuốn sách này, ngày hôm nay, ông sẽ nói như thế nào?

     Có mấy đề tài đáng được suy nghĩ: 1) Ngày nay ta học nhiều về khoa học và kỹ thuật: khoa học là để làm chủ vũ trụ một cách lý thuyết, kỹ thuật là để làm chủ vũ trụ một cách thiết thực. Cho nên một đàng thì cần suy nghĩ về cái bản chất và cái lý sự trong khoa học, một đàng thì tìm xem kỹ thuật có ý nghĩa gì đối với con người cá nhân cũng như đối với xã hội. 2) Người ta sống là sống trong xã hội. Thầy Khổng dạy trong sách Trung dung rằng “nhân (chữ nhân và chữ nhị) giả nhân dã”, nghĩa là: có được sống với người khác, và có sống được với người khác, thì mới thành người. Cho nên cần suy nghĩ về cuộc sống chung giữa người ta với nhau, về bản chất của xã hội và về liên quan giữa cá nhân và xã hội. Đó là vấn đề đạo đức xã hội, bao trùm những suy nghĩ về lòng “nhân ái”, và về những định chế công bình.

     Con người ta khác con vật là ở chỗ có văn hóa, mà văn hóa thì căn cứ vào ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm cho ta vượt ra ngoài cái cá nhân của ta mà thông tin, thông cảm, thông đồng với người khác. Nó còn làm cho ta vượt được ra ngoài giây phút hiện tại, để nhớ đến cái quá khứ không còn nữa, để nói về những cái bây giờ đang làm cho ta chú ý, và về cái tương lai chưa có mà ta đang dự tính. Cho nên thiết tưởng cần suy nghĩ về tiếng nói, về các loại lời nói, về các công dụng của nó, và về giới hạn của nó.

LÝ ĐỢI thực hiện

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Tiền Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là ngân hàng trung ương của Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa hình thành ngày 31 tháng 12 năm 1954 và hoạt động đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngoài việc phát hành tiền tệ, cơ quan này đảm trách việc quản lý tài chính và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Theo Wiki - Link Thêm thông tin  https://tuoitre.vn/150-ngay-cuoi-cua-dong-bac-tran-hung-dao-1307139.htm

Kể chuyện kinh cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975 - phần II

  3-  Cầu trên rạch phiá Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bải Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua  quận 1  thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại , kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905. Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois  (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ. Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng-Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi. Rạch Bến Nghé chảy về phiá Tây thì gặp Rạch Lò Gốm h...

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

Hình ảnh hiếm của đường Catinat vào 100 năm trước

  Đường Catinat (đường Tự Do, nay là đường Đồng Khởi) đã đượᴄ người Pháp thiết lập ngay từ lúᴄ họ bắt đầu quy hᴏạᴄh νà xây dựng Sài Gòn thành một đô thị kiểu phương Tây, νà là ᴄᴏn đường đượᴄ tráng nhựa đầu tiên ᴄủa Sài Gòn. Sau đó không lâu, nó nhanh ᴄhóng trở thành trung tâm sinh hᴏạt thương mại ᴄủa thành phố. Đường Catinat 100 năm trước Để nói về sự nhộn nhịp rực rỡ của con đường Catinat đầu thế kỷ 20, hãy đọc lại những mô tả của nhà văn hóa Phạm Quỳnh khi ông có chuyến thăm Nam kỳ vào năm 1918, như sau: “Kể tᴏ lớn thì đường Catinat ᴄhưa phải là tᴏ lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng ᴄũng tứᴄ như đường Paul Albеrt ở Hà Nội (nay là phố Tràng Tiền) là nơi người Tây đến lập phố trướᴄ nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu ᴄũng đổ xô νề đấy, ᴄáᴄ đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúᴄ phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một ᴄᴏn đường ᴄhạy dọᴄ thеᴏ, tᴏ lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charnеr (nay là đường Nguyễn Huệ) để rút bớt ᴄái sứᴄ bành trướng đi í...

Xe Coca Cola

 Xe Coca Cola

Xe bus đưa rước trường Khải Minh

 Xe bus đưa rước trường Khải Minh năm 1960, ngã tư Nguyễn Văn Thinh – Tự Do (nay là Mạc Thị Bưởi – Đồng Khởi)

Sài Gòn - những vòng xoay ký ức - Kỳ 9: Hồ Con Rùa, chiến tranh và hoa hồng tình yêu

TTO - Trong gia đình, tôi là thế hệ thứ hai dạo chơi hồ Con Rùa. Từ những năm 1960, mẹ tôi đã hóng mát nơi này khi còn là cô nữ sinh Trường Áo Tím (còn gọi Trường nữ sinh Gia Long, sau năm 1975 là THPT Nguyễn Thị Minh Khai). Hồ Con Rùa giữa tháng 10-2021 - Ảnh: Q.V. TP.HCM, sáng 15-10-2021, tròn hai tuần được nới lỏng giãn cách vì đại dịch. Trên những ghế gỗ đặt quanh hồ Con Rùa, vài đôi bạn trẻ đang tâm tình chuyện yêu thương. Một nhành hoa hồng đỏ thắm được chàng trai trao tặng cô gái kèm những lời e ấp thoảng bay trong gió... Nơi chốn một thời thơ mộng Nhìn hình ảnh lãng mạn vẫn xuất hiện giữa tháng ngày cực kỳ khó khăn của thành phố, tôi như sống lại ký ức thời sinh viên hơn 25 năm trước. Đất nước ngày ấy đang bước dần vào giai đoạn phát triển. Thế hệ sinh viên chúng tôi được ngồi yên ấm ở giảng đường mà không còn phải ngửi mùi thuốc súng. Ở Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM (Đại học Văn khoa Sài Gòn cũ), chúng tôi hay có điểm đến cuối tuần chính là hồ Con Rùa, vòng...