Chuyển đến nội dung chính

Cách xưng hô thứ bậc thú vị của người Sài Gòn xưa

 Người Sài Gòn xưa có cách xưng hô thứ bậc thú vị: công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?

Hẳn những người Sài Gòn xưa, không ai là không biết câu nói cửa miệng của giới trẻ Sài Gòn một thời từng là: "bỏ qua đi Tám". Cách xưng hô thứ tự này còn gặp thường xuyên trong lời ăn tiếng nói ở Sài Gòn xưa, như thầy Hai, con Tám, anh Ba Tàu, anh Bảy Chà... Ít người biết, cách xưng hô như vậy có thứ tự đàng hoàng, có nguồn gốc lịch sử lâu đời.

Sài Gòn – Chợ Lớn từ đầu thế kỷ 20, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp…



Sau đây là các thứ bậc xưng hô ở Sài Gòn xưa:

Thứ Hai: Các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…

Thứ Ba: Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.

Thứ Tư: Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa”, chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó. Những anh Tư đó thậm chí còn được các tiểu thuyết gia ca tụng về sự nghĩa khí giang hồ, như Đại Cathay hay Hoàng Guitar trong tiểu thuyết Duyên Anh.

Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm ma cô...

Thứ Sáu: Bị giới bình dân ghét hơn cả đám lưu manh côn đồ, là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

Thứ Bảy: Trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

Thứ Tám: Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.

Thứ Chín: Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.

“Anh Hai Sài Gòn” thì là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện tính cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung.  ‎

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Tiền Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là ngân hàng trung ương của Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa hình thành ngày 31 tháng 12 năm 1954 và hoạt động đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngoài việc phát hành tiền tệ, cơ quan này đảm trách việc quản lý tài chính và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Theo Wiki - Link Thêm thông tin  https://tuoitre.vn/150-ngay-cuoi-cua-dong-bac-tran-hung-dao-1307139.htm

Kể chuyện kinh cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975 - phần II

  3-  Cầu trên rạch phiá Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bải Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua  quận 1  thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại , kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905. Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois  (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ. Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng-Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi. Rạch Bến Nghé chảy về phiá Tây thì gặp Rạch Lò Gốm h...

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

Hình ảnh hiếm của đường Catinat vào 100 năm trước

  Đường Catinat (đường Tự Do, nay là đường Đồng Khởi) đã đượᴄ người Pháp thiết lập ngay từ lúᴄ họ bắt đầu quy hᴏạᴄh νà xây dựng Sài Gòn thành một đô thị kiểu phương Tây, νà là ᴄᴏn đường đượᴄ tráng nhựa đầu tiên ᴄủa Sài Gòn. Sau đó không lâu, nó nhanh ᴄhóng trở thành trung tâm sinh hᴏạt thương mại ᴄủa thành phố. Đường Catinat 100 năm trước Để nói về sự nhộn nhịp rực rỡ của con đường Catinat đầu thế kỷ 20, hãy đọc lại những mô tả của nhà văn hóa Phạm Quỳnh khi ông có chuyến thăm Nam kỳ vào năm 1918, như sau: “Kể tᴏ lớn thì đường Catinat ᴄhưa phải là tᴏ lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng ᴄũng tứᴄ như đường Paul Albеrt ở Hà Nội (nay là phố Tràng Tiền) là nơi người Tây đến lập phố trướᴄ nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu ᴄũng đổ xô νề đấy, ᴄáᴄ đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúᴄ phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một ᴄᴏn đường ᴄhạy dọᴄ thеᴏ, tᴏ lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charnеr (nay là đường Nguyễn Huệ) để rút bớt ᴄái sứᴄ bành trướng đi í...

Xe Coca Cola

 Xe Coca Cola

Xe bus đưa rước trường Khải Minh

 Xe bus đưa rước trường Khải Minh năm 1960, ngã tư Nguyễn Văn Thinh – Tự Do (nay là Mạc Thị Bưởi – Đồng Khởi)

Sài Gòn - những vòng xoay ký ức - Kỳ 9: Hồ Con Rùa, chiến tranh và hoa hồng tình yêu

TTO - Trong gia đình, tôi là thế hệ thứ hai dạo chơi hồ Con Rùa. Từ những năm 1960, mẹ tôi đã hóng mát nơi này khi còn là cô nữ sinh Trường Áo Tím (còn gọi Trường nữ sinh Gia Long, sau năm 1975 là THPT Nguyễn Thị Minh Khai). Hồ Con Rùa giữa tháng 10-2021 - Ảnh: Q.V. TP.HCM, sáng 15-10-2021, tròn hai tuần được nới lỏng giãn cách vì đại dịch. Trên những ghế gỗ đặt quanh hồ Con Rùa, vài đôi bạn trẻ đang tâm tình chuyện yêu thương. Một nhành hoa hồng đỏ thắm được chàng trai trao tặng cô gái kèm những lời e ấp thoảng bay trong gió... Nơi chốn một thời thơ mộng Nhìn hình ảnh lãng mạn vẫn xuất hiện giữa tháng ngày cực kỳ khó khăn của thành phố, tôi như sống lại ký ức thời sinh viên hơn 25 năm trước. Đất nước ngày ấy đang bước dần vào giai đoạn phát triển. Thế hệ sinh viên chúng tôi được ngồi yên ấm ở giảng đường mà không còn phải ngửi mùi thuốc súng. Ở Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM (Đại học Văn khoa Sài Gòn cũ), chúng tôi hay có điểm đến cuối tuần chính là hồ Con Rùa, vòng...