Chuyển đến nội dung chính

Ngôn ngữ Nam Kỳ


Bàn về cái sân bay Tân Sơn Nhứt thiệt nhức đầu!

Năm 1920 Pháp giải tỏa gần hết cái làng Tân Sơn Nhứt, thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định làm sân bay, phần đất còn lại không đủ tiêu chuẩn lập làng riêng, nên hiệp với làng Chí Hòa thành làng Tân Sơn Hòa.

Cái thuở đó tên sân bay tiếng Pháp là aérodrome. Tân Sơn Nhứt là sân bay duy nhứt và đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương thời đó.

Người Nam Kỳ mình gọi tên tục là “sân bay” và “máy bay”. Cái gì vù lên trời là bay hết, thí dụ chim bay.

Do người Tàu kêu sân bay là 機場 (cơ trường) nên người Nam Kỳ khai sanh chánh thức sân bay là phi trường, máy bay là phi cơ.


Nhắc lại tập tánh dân Nam Kỳ mình nè.

Xưa nay cái gì chạy dưới nước kêu là tàu, cái nào chạy trên lộ (đường) là xe, cái gì bay trên trời là máy bay (phi cơ, phi thuyền).

Trước 1975 tên sân bay Tân Sơn Nhứt là “Phi cảng Tân Sơn Nhứt” mà không là “Phi trường Tân Sơn Nhứt”.

Cảng trong văn hóa Việt xưa rày là 港 (cảng) là cửa sông, cửa biển, nhánh sông cho tàu bè đậu, như: “hải cảng” 海港, “thương cảng” 商港, “quân cảng” 軍港...

Tỉ dụ như Hương Cảng 香港 là cảng thơm (Hongkong).

Vì sao ở miền Nam trước 1975 tên sân bay Tân Sơn Nhứt là “Phi cảng Tân Sơn Nhứt” mà không là “Phi trường Tân Sơn Nhứt”? 

“Phi cảng Tân Sơn Nhứt” thành “Cảng hàng không Tân Sơn Nhất”.

Cảng của tàu, ghe, thuyền giờ qua tới cảng… máy bay???

Vui và ngộ, tức cười cái là máy bay, phi cơ 飛機 biến thành “Tàu bay”

Cái này trong văn hóa Miền Bắc nhà quê từ xưa lận.

Hỏa xa (火車) là tàu hỏa trong khi dân Nam Kỳ kêu là xe lửa.

Nên nhớ xe lửa Saigon-Mỹ Tho là có đầu tiên ở Nam Kỳ nha!

Tại sao tàu thuyền lại chạy trên mặt đất?

Họ kêu máy bay là tàu bay, kêu phi thuyền là “tàu vũ trụ”, nghe “Phở tàu bay” là biết của ai bán rồi hén?

Nhiều người lý giải rằng chữ “cảng hàng không” là dịch từ chữ airport (Anh), aéroport (Pháp), có chữ port là cảng hết ráo.

Rồi airship là khí cầu, có chữ ship là... tàu hết ráo.

Nói như vầy là đánh tráo khái niệm.

Vậy chứ cái xe lửa tiếng Anh, Pháp là train có chữ ship hay port nào đâu mà cũng kêu là “tàu hỏa” đó.

Hán Việt nó có quy tắc của nó, người Nam Kỳ xài chính xác, từ rất đẹp không có gì phải sửa tùm lum, rồi xọ từa lưa.

Chữ 艚 (Tào) người Nam Kỳ đọc là Tàu có nghĩa là “thuyền”, còn chữ 漕 tào này cũng là vận tải đường thuỷ mà thôi.

Tỉ dụ như bài thơ:

“Phi cơ đáp xuống một chiều

Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa

Dài hơi hát khúc thương ca

Thân côi khép kín trong tà áo đen”

Nếu đổi lại thành “Tàu bay đáp xuống một chiều” thì... coi như đem quăng vô thùng rác nguyên bài thơ.

“Tàu bay” là một từ nhà quê, của những người trong hốc bà tó người ta nói mà thôi.

Người Bắc toàn sanh sau đẻ muộn thời hiện đại ở Việt Nam nhưng bản chất thích sửa lưng và áp đặt.

Đây là ý đồ chánh trị rõ ràng.

Nhưng cũng không thống nhứt chữ “tàu bay” và “cảng hàng không”.

Thí dụ bài nhạc “Chiều trên bến cảng” của một nhạc sĩ Miền Bắc có câu:

“Một chiều mùa hè gặp nhau trên bến cảng

Ta chia tay nhau

Trong lòng bao lưu luyến

Anh đi ra khơi theo mùa cá biển”

Và:

“Khi chia tay anh dạo trên bến cảng

Biển một bên và em một bên”

Đọc xong ai cũng biết mặc định cảng là phải có sông hoặc biển.

Rồi mới đây vụ rớt phi cơ chiến đấu thì báo chí Việt Nam ghi là “Máy bay Su 22 gặp nạn: Các anh đều là phi công giỏi”.

Ngộ ta? Sao không ghi là “tàu bay Su 22” và có hai “tàu công” hy sanh?

Bài viết được tham khảo từ tài liệu:"Nam Kỳ lục tỉnh".

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...