Chuyển đến nội dung chính

Dạ Lữ Viện Địa Phương Sài Gòn - Chợ Lớn

 DẠ LỮ VIỆN - "NƠI CỰC LẠC CỦA KẺ ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ"!

Đúng 76 năm về trước, tại Sài Gòn người ta đã xây một ngôi nhà dành cho người lang thang, không cửa không nhà tới ngủ hằng đêm.


CÁI TÊN MỸ MIỀU

Ngày 16/11/1949, "Dạ Lữ Viện Địa Phương Sài Gòn - Chợ Lớn" được khánh thành ở số 345 Galliéni, Sài Gòn (đường Trần Hưng Đạo ngày nay) sau thời gian xây dựng theo đề xuất của Bộ Xã hội Quốc gia Việt Nam dưới thời chính phủ của Thủ tướng Trần Văn Hữu. Trước đó, từ tháng 7/1949, chính quyền Pháp đã thành lập Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp sau khi giải thể Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Ngôi nhà này dành cho người thất cơ lỡ vận, không nơi ngủ nghỉ có thể đến để trú ngụ qua đêm.

Trong tiếng Tây, "L’ asile de nuit" có nghĩa là nơi trú ngụ qua đêm dành cho những người lang thang, lỡ đường hoặc không có chỗ ở, nó giống như nơi tạm trú, cung cấp chỗ ngủ qua đêm. Sau này nhiều người gọi nơi đây là “dạ lữ viện” tức "chỗ công cộng dành riêng cho những người dân không nhà trú ngụ về ban đêm”!

Khu nhà này có diện tích khoảng 200m2, mái lợp ngói và hai gian nhà được thiết kế giống một cánh cửa mở để đi vô một ngôi chùa. Với kiến trúc và cái tên như vậy, có lẽ những người có chủ trương này muốn cho người vô đây bớt đi cảm giác được bố thí, ít nhiều đỡ tủi thân.

Ngoài những người đã chọn Sài Gòn làm nơi sinh sống mà vì hoàn cảnh nào đó không có nhà cửa để ở, lấy nơi đây làm nơi tá túc qua đêm, thì "Dạ Lữ Viện Địa Phương Sài Gòn - Chợ Lớn" còn là nơi trú ngụ của những người chân ướt chân ráo mới đến Sài Gòn, chưa có chỗ ở, chưa tìm được việc làm. Ban ngày, những người này ra phố tìm việc, kiếm cái ăn, ban đêm trở về dạ lữ viện. Quá giờ, đóng cổng, người nào về trễ đành ngủ vỉa hè. 

Dạ lữ viện tiếp nhận người nghèo không phân biệt độ tuổi và giới tính, cho mỗi người một chỗ nghỉ ngơi miễn phí trong vòng 7 đêm liên tiếp. Tuy nhiên, những người về muộn do công việc hoặc do yêu cầu của chủ, có thể được vào nghỉ ngoài những khung giờ quy định trên. Đặc biệt, những người do cảnh sát dẫn đến thì được vào ngủ bất kỳ giờ nào trong đêm.

Bên cạnh đó, dạ lữ viện cũng tổ chức một văn phòng giới thiệu việc làm, với danh sách người xin việc và thông tin việc làm được cập nhật mỗi tuần. Văn phὸng này đã giúp công ăn việc làm cho trên dưới 200 người từ thư kу́, lái xe, giúp việc và phu phen.

Nhiều người ở Sài Gòn gần hết đời người nhưng không hề biết nơi này, hoặc nhầm đây với những trại tế bần. Trại tế bần (hay trại cứu tế hay trung tâm bảo trợ xã hội), là những khu trại được dựng lên để thực hiện việc cứu tế, cung cấp lương thực, thực phẩm miễn phí cho những người vì hoàn cảnh, điều kiện mà không thể tự nuôi mình, cung cấp cho đối tượng này chỗ ở và công ăn việc làm. Các đối tượng ở trại tế bần thường là những người nghèo khổ, vô gia cư, nạn nhân của các trận thiên tai, lũ lụt, nạn đói, trẻ em lang thang đường phố, trẻ mồ côi... Hình thức này đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử và được ghi nhận chính thức vào năm 1631 ở châu Âu. 

Như vậy, hai nơi này dù hình thức hoạt động có chút giống nhau là đều do nhà nước lập ra và trích ngân sách quốc gia để hoạt động cùng sự đóng góp của các nhà hảo tâm; nhưng khác nhau ở chỗ: dạ lữ viện thì mọi người ở qua đêm chỉ trong một thời gian ngắn, còn trại tế bần thì nuôi dưỡng người lang thang, cơ nhỡ lâu dài. Ở một số nơi còn có thêm "Nhà Thương Thí" được ngân sách chính phủ chi trả toàn diện. Ngoài ra còn có "Chẩn Y Viện" (trạm y tế) chuyên điều trị các bệnh lặt vặt miễn phí, và có bác sĩ các khoa nội, ngoại khác nhau.

Một số nơi ở miền Trung và miền Nam trong quãng thời gian từ 1954 đến 1963 còn có các “Dạ Lữ Điếm” với công dụng và chức năng tương tự để giúp đỡ những người cơ nhỡ, lỡ đường nơi đất khách nhưng không có nhà người quen, thân thích có thể vào đó để nghỉ qua đêm.

ĐẾN TY CẢNH SÁT CÔNG LỘ

Tới quãng năm 1955, dạ lữ viện này thường xuyên bị hư hại bởi các cuộc giao tranh giữa quân đội chính phủ với lực lượng Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn. Sở dĩ bị đánh phá hoài bởi dạ lữ viện này nằm sát bên “tổng hành dinh” của Ty Cảnh sát Công an, thời này do Tổng Giám đốc Lai Văn Sang (thuộc lực lượng Bình Xuyên) đảm trách.

Chính những cuộc đụng độ thường xuyên này khiến dạ lữ viện tan hoang và làm những người ở đây trôi dạt tứ phương. Năm 1957, Ty Cảnh sát Công lộ lúc này đang nằm sau lưng của tòa nhà Quốc hội (Nhà hát thành phố bây giờ) bị thu hồi và tới năm 1968 dời về lấy vị trí của dạ lữ viện làm bộ chỉ huy. Sau này, ngôi nhà dạ lữ viện trở thành Sở Cảnh sát Lưu thông, từ năm 1968 tới 1970 thì toà nhà này được đổi thành Ty Cảnh sát Công lộ, người dân hay gọi “bót công lộ”. 

Chính vì gần Ty Cảnh sát Công lộ nên quãng những năm 1970-1972 có một võ đường ở trong xóm phía sau bót Công lộ được người dân gọi luôn là “võ đường công lộ”. Đây chính là võ đường On Do Wan dạy võ Takendo do người Đại Hàn lập ra, khác với một võ đường khác cũng của người Đại Hàn ở Hàng Xanh mang tên Chun Do Wan.

Tòa nhà này hiện là Phòng Cảnh sát Giao thông TP.HCM, nằm đối diện trường Tiểu Học Trần Hưng Đạo.

KHU DẠ LỮ VIỆN

Sau năm 1975, dạ lữ viện này bị giải tỏa. Năm 1982, chính quyền địa phương phải bố trí những người từ khu kinh tế mới về, sống lang thang tại chợ Nancy (ngay ngã tư Trần Hưng Đạo - Nguyễn Văn Cừ ngày nay) về khu này ở tạm.

Truyền thông trong rất nhiều năm từng viết về “khu Dạ Lữ Viện” (hẻm 42 đi từ đường Nguyễn Văn Cừ hay đường Trần Hưng Đạo vô đều được), là nơi cư ngụ của người nghèo tứ xứ, sống chen chúc, tạm bợ trong những căn phòng rách nát. Nhiều người vật lộn với đủ thứ nghề để kiếm sống.  

Năm 2004, nơi đây có hơn trăm người của gần ba chục hộ cư ngụ chen chúc ở với nhau trong một thời gian dài, tới năm 2018, sau khi đã di dời có đền bù cho người dân, khu dạ lữ viện này được xây thành khu công ích.

HÀ NỘI CŨNG CÓ DẠ LỮ VIỆN

Có thông tin cho hay, tại Hà Nội cũng có một dạ lữ viện do Hội Hợp thiện thành lập, còn sớm hơn cả cái ở Sài Gòn. Theo bài viết của ông Bùi Hệ, Dạ Lữ Viện này được khởi công xây dựng năm 1932 tại đường Soeur Antoine (nay là phố Hàng Bột), Hà Nội.

Bài viết trên đề cập đến chi tiết ngày 4/12/1933, vua Bảo Ðại đã tham dự lễ khánh thành, khi đó dạ lữ viện này đã hoàn thiện được khoảng hai phần ba. 

Đúng là số khổ lỡ đường không có tiền ngủ khách sạn qua đêm mà có một chỗ tắm giặt ngả lưng cho quên bớt nhọc nhằn, chẳng phải đó là "nơi cực lạc của kẻ đầu đường xó chợ" hay sao?

Kể từ ngày ấy, 2/3 thế kỷ đã trôi qua, nhưng ở Sài Gòn hoa lệ với người không nhà, giờ tìm đâu một nơi như thế?

Chú thích ảnh: mặt tiền "Dạ Lữ Viện Địa Phương Sài Gòn - Chợ Lớn"

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...