Chuyển đến nội dung chính

Bức thư chúa Nguyễn gửi cho Mạc Phủ Nhật Bản

 Bức thư chúa Nguyễn gửi cho Mạc Phủ Nhật Bản, thời điểm là ngày 13 tháng 6  niên hiệu Chính Hòa [niên hiệu của vua Lê Hy Tông (1680-1705)].

Theo cụm từ Chính Hòa diên niên 正和延年  có thể là chúa Nguyễn Phúc Chu [trị vì 1691 - 1725].

Thời điểm này, bên Nhật Bản là Thiên Hoàng Higashiyama [Thiên Hoàng Đông Sơn東山天皇], và Chinh Di đại tướng quân [Mạc Phủ] là Tokugawa Tsunayoshi [徳川綱吉 Đức Xuyên Cương Cát].


------------------------

Mấy điểm lưu ý:

1. Chúa Nguyễn đã xưng: An Nam quốc quốc vương安南國國王.

2. Thư dùng lời văn trang trọng thể hiện văn bản ngoại giao.

3. Chữ lớn: Thư Loan 書鑾 khẳng định mình là vua.

4.Văn bản thương nghị việc buôn bán, đề nghị phía Nhật Bản xét lại tỷ lệ giữa tiền đồng và tiền sắt, tránh thiệt thòi cho các thương nhân người Việt.

-------------------------

THƯ LOAN.

Vua nước An Nam kính cẩn viết gửi đến Đại Minh vương nước Nhật Bản.

Nay trong nước tạm không có việc, nên kính cẩn viết thư này.

Thư nói rằng: Bậc quân tử kết giao tin cậy giữa các nước, cốt phải lấy lễ mà mở đầu. Nghĩ đến quý phủ cùng nước tôi đồng một cõi, tuy trời đất có khác, nhưng từ các triều trước, nước quý phủ đã sớm giao hảo, coi nhau như anh em. Nay theo ước định [từ] mùa xuân, từ đó về sau, tuy chưa thông thương buôn bán, nhưng ý nghĩa hòa hiếu càng thêm gắn bó. 

Nay người người đều noi theo mệnh lệnh, mong muốn đổi mới. Lại có việc dâng cống đến các nước khác, theo lệ hàng tháng đem phẩm vật chúc mừng, cũng là để biểu hiện phép tắc, noi theo quy chế. Theo đó gần đây tôi mới dâng lời bàn, khẩn cầu lập ra điển lệ ở bản quốc, để làm gương sáng, chưa dám bày tỏ đầy đủ, chỉ tạm trình bày sơ lược.

Nước tôi vốn dùng y phục tinh mỹ [y phục tinh xảo đẹp đẽ], mới chế tác những vật tốt đẹp, lại thêm sản vật thiết dụng, để làm đồ cung hiến. Lâu dài về sau, có thể thường xuyên hiến tiến. Quý phủ vốn có sản địa [sản phẩm địa phương] tốt về đồng, thế nhưng không tự đúc tiền, lại càng đặc biệt. Việc buôn bán nơi quý phủ, giá đồng lại tăng thêm năm phần, phép định ba loại tiền, đều dùng sắt tiền [tiền xu sắt]. Người nước tôi buôn bán, giá trở nên đắt đỏ. Nếu không theo đó, thì làm sao thông thương? Vì thế nay xin lấy tiền đồng tiền, tiền sắt [theo tỷ giá của phía quý phủ] thì việc buôn bán của nước tôi trở nên tốn kém. Quý phủ nếu có thể nhường nhịn, thì sau này ắt sẽ có báo đáp, xin nhờ thông thương mà thêm ơn nghĩa, giữ trọn tín nghĩa.

Nay dâng các vật:

- Mười món phẩm vật,

- Mười tấm lụa trắng mịn,

- Mười gốc cây gỗ đàn hương,

- Mười cân đường đen,

- Mười cân cau,

- Thêm mười món linh vật,

Và các thứ khác đã ghi trong thư.

Ngày 13 tháng 6, niên hiệu Chính Hòa.

---------------------------

Nguồn: Nét xưa

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...