Chuyển đến nội dung chính

Văn học mạng hôm nay: vài thách thức

 Cách đây khoảng dăm năm, cả văn giới như lên cơn sốt với vi tính, với internet. Lớp nhà văn thuộc thế hệ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ai không biết sử dụng máy tính, không biết cách gửi email thì coi như là không “tiến kịp thời đại”, lớp nhà văn trẻ 7X, 8X ai không chơi blog thì coi như “người hành tinh khác xuống”. Thậm chí, có nhà văn trong lúc phấn khích đã cảm khái thốt lên rằng tôi online là tôi tồn tại.

Văn học mạng hôm nay: vài thách thức ảnh 1
Minh họa của K.Long

Lợi ích của mạng internet đối với người cầm bút là quá rõ: có thể đưa bài lên bất cứ thời gian nào, có thể đưa nhiều bài cùng một lúc, sự tương tác với bạn đọc nhanh chóng và “thích nhất” là không phải qua bất cứ sự “kiểm duyệt” nào. Từ đó đến nay hàng loạt trang web văn học ra đời nhanh chóng như nấm mọc sau mưa. Có trang web do cá nhân hay một nhóm người sáng lập như phongdiep.net, lethieunhon.com, bungbinhsaigon.net, trannhuong.com, lucbat.com, thivien.net… có trang web trực thuộc các cơ quan, đoàn thể chuyên trách về văn học như hoinhavanvietnam.com.vn, vannghequandoi.com.vn, vanhocquenha,evan,vannghesongcuulong.org.vn… Những trang web này về cơ bản có cùng chức năng như tra cứu dữ liệu, cập nhật tình hình thời sự của đời sống văn học nước nhà, đăng tải các sáng tác mới của các tác giả, phê bình tranh luận, phản biện các vấn đề văn học… Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã có một thế giới văn học mạng đang hình thành và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên ngắm nghía kỹ thế giới này, chúng ta vẫn thấy còn tồn tại nhiều vấn đề khiến mọi người không khỏi gợn chút băn khoăn.

Thứ nhất là vấn đề chính danh. Như đã nói ở trên, các trang văn học mạng giờ vô cùng nhiều, khó có con số thống kê chính xác. Song, không tính những trang web cá nhân, số trang mạng trực thuộc các cơ quan, tổ chức, đoàn thể hiện nay phần nhiều mới chỉ dừng lại ở những trang tin điện tử chứ chưa thành tờ báo điện tử. Hẳn nhiên sẽ có nhiều bạn đọc thắc mắc rằng việc này có gì mà quan trọng đến vậy? Xin thưa, sự khác biệt giữa trang tin điện tử và báo điện tử nằm ở hàng loạt khâu như quy mô tờ báo, nhân sự, trách nhiệm pháp lý… và khâu nhuận bút. Hiện giờ, tuyệt đại đa số các bài đăng trên các trang văn học mạng đều miễn phí. Điều này khiến nhiều người cầm bút không có “động lực thiết thân” khi viết cho báo mạng. Họ thường chỉ gửi những tác phẩm cũ, đã đăng tải cho báo mạng, còn những tác phẩm mới nhất thì dành cho… báo giấy. Do vậy mặc dù có tiếng nhanh, hiện đại, cập nhật nhưng trên thực tế báo mạng luôn… đi sau báo giấy, là sân sau chuyên đăng lại những bài báo giấy đã in. Tình trạng này diễn ra phổ biến trong suốt thời gian qua. Chừng nào còn phải sống nhờ báo giấy thì chừng ấy khó có thể nói báo văn học mạng phát triển một cách bài bản, chính thống và khỏe mạnh được. Việc trở thành một tờ báo điện tử chính thức, đồng nghĩa với việc có chế độ nhuận bút (dù còn ở mức độ khiêm tốn) cũng sẽ động viên được người cầm bút tìm đến, qua đó các trang văn học mạng từng bước chấm dứt tình trạng “ăn nhờ ở đậu” báo giấy, tiến đến tự nuôi sống chính mình như các trang báo mạng xã hội khác. Tuy nhiên theo quan sát của chúng tôi, số tờ báo điện tử chuyên về văn học hiện nay ở nước ta mới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngay cả trang web chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam cũng mới chỉ dừng lại ở mức này và sau bốn năm hoạt động với số lượng bạn đọc truy cập đông đảo, mãi gần đây trang vannghequandoi.com.vn của “nhà số 4, phố nhà binh” mới được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp phép chính thức trở thành một tờ báo điện tử đúng nghĩa. Vậy nên, thiết nghĩ đây là việc làm quan thiết mang tính chất sống còn với các trang văn học mạng.

Thứ hai là vấn đề đội ngũ cộng tác viên. Dù cho đã trở thành báo điện tử thì các trang văn học mạng vẫn phải đối mặt với những khó khăn trong việc thu hút bài vở cộng tác, xây dựng đội ngũ cộng tác viên cho riêng mình. Khó khăn trước nhất nằm ở khía cạnh tâm lý. Tâm lý chung của người viết văn chuyên nghiệp và không chuyên đều thích in ở báo giấy hơn báo mạng (ngay cả khi báo mạng trả nhuận bút cao hơn). Cảm giác cầm trong tay một tờ báo (vật hiện hữu), ngắm nhìn đứa con tinh thần của mình được hiển hiện bằng những con chữ tươi mực roi rói vẫn sung sướng hơn nhìn trên một trang mạng điện tử tuy sống động nhưng lại không sờ, nắm bắt được. Tờ báo giấy – mặc dù cũng là một sản phẩm của thời đại công nghiệp – nhưng vẫn có “hồn cốt” hơn so với trang mạng. Ngoài ra quan niệm lên mạng chủ yếu là đọc tin tức cũng đã ăn sâu vào một bộ phận không nhỏ công chúng nên đôi lúc khiến họ quên mất rằng tờ báo mạng cũng rất cần bài vở cộng tác. Đây là hiện tượng rất đáng lưu tâm. Trong thời gian làm quản trị trang web văn học của “nhà số 4, phố nhà binh” vannghequandoi.com.vn, người viết bài có làm phép toán thống kê lượng người truy cập và lượng bài vở gửi đến cộng tác với trang điện tử trong ngày, trong tuần và tháng. Kết quả cho ra một con số khập khiễng “một trời một vực”. Bình thường một ngày có đến vài nghìn người truy cập vào vannghequandoi.com.vn với hàng chục bình luận (comment), nhưng cả tháng họa hoằn lắm mới có đôi ba bài gửi đến cộng tác. Trong khi đó chỉ tính riêng hòm thư điện tử của tạp chí một ngày bình quân đã nhận được hàng trăm bài vở cộng tác (cho báo giấy). Nếu tính cả bài vở gửi theo đường bưu điện truyền thống thì con số cũng xấp xỉ cả ngàn. Cách biệt quá lớn phản ánh rằng tâm lý người viết vẫn chuộng báo giấy hơn báo mạng. Tâm lý này có phần do thói quen, phần do nguyên nhân sau.

Thứ ba là vấn đề thương hiệu. Xét trên các yếu tố lịch sử, danh tiếng, uy tín của đội ngũ biên tập… các tờ báo văn học giấy hiện nay hơn hẳn các tờ báo văn học mạng. Trong khi nhiều tờ báo văn học giấy đã là một giá trị, một thương hiệu được khẳng định thì các trang văn học mạng lại chưa có được điều này. Mặt khác, còn có một sự thật hiển nhiên là nhiều trang văn học mạng hiện tồn tại dựa trên chính uy tín và thương hiệu của báo giấy như vannghequandoi.com.vn, tapchisonghuong.com.vn… Do vậy, chúng ta không quá ngạc nhiên khi giới cầm bút chuyên và không chuyên trong cả nước chưa mặn mà lắm với những trang văn học điện tử.

Trên đây là ba nguyên nhân chính theo chúng tôi ảnh hưởng đến khả năng phát triển của văn học mạng nói chung và các chuyên trang văn học mạng nói riêng. Trong ba nguyên nhân trên, đặc biệt khó là nguyên nhân thứ hai và ba. Việc thay đổi tâm lý của đông đảo người viết, tạo dựng thương hiệu cho báo mạng không phải là công việc một sớm một chiều mà đòi hỏi thời gian, công sức, tiền bạc và cả sự kiên nhẫn.

Văn học mạng vẫn còn một chặng đường dài ở phía trước.

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...