Ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, Phó Đô đốc Pháp là Charner (tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam kỳ) đã ra quyết định đề ngày 11/4/1861 ấn định ranh giới của thành phố. Lúc đó Sài Gòn có ranh giới như sau: một mặt, rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois) và rạch Thị Nghè (Arroyo Avalanche), một mặt các phòng tuyến cũ của đồn Chí Hòa. Diện tích thành phố như thế sẽ là khoảng 2.500 ha, cho một dân số từ 500.000 đến 600.000 người. Vùng ngoại ô rộng lớn sẽ được thiết lập trên bờ trái của sông và bờ phải của kinh Bến Nghé. Các công xưởng sẽ được bố trí tại đây và đây cũng sẽ là nơi tiếp nhận số công nhân, thợ thuyền người “bản xứ” từ các nơi kéo tới.
3- Cầu trên rạch phiá Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bải Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua quận 1 thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại , kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905. Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ. Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng-Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi. Rạch Bến Nghé chảy về phiá Tây thì gặp Rạch Lò Gốm h...
Nhận xét
Đăng nhận xét