Chuyển đến nội dung chính

Khu vực Ngã 3 Ông Tạ và những xóm đạo nổi tiếng của Sài Gòn

“Khu ông Tạ” là một nơi nổi tiếng và đặc biệt của Sài Gòn ngày xưa. Nơi đây có rất nhiều họ đạo, là khu “Bắc 54 đậm đặc” nhất của Sài Gòn, theo lời của một “dân ông Tạ” là nhà báo Cù Mai Công. Những người di cư từ miền Bắc đã mang vào khu Ông Tạ nguyên vẹn cuộc sống, từ y phục, giọng nói, ẩm thực và văn hóa nói chung.

Hiện nay, cái tên Ông Tạ không phải là tên gọi hành chính một cách chính thức, nhưng người ta vẫn quen gọi ngã 3 CMT8 – Phạm Văn Hai hiện nay là ngã 3 Ông Tạ, và dù cầu Ông Tạ năm xưa bắt qua kênh Nhiêu Lộc cũng đã không còn, thay vào đó là 2 cây cầu 2 bên để đi 2 chiều, người ta vẫn quen gọi là cầu Ông Tạ. Ngoài ra, chợ Ông Tạ cũng đã bị giải tỏa để thành trường tiểu học Phạm Văn Hai, nhưng người ta vẫn gọi khu này là Chợ Ông Tạ, và bà con tiểu thương vẫn tiếp tục buôn bán các mặt hàng truyền thống ở hai bên đường Phạm Văn Hai, đặc biệt đây vẫn là khu bán lá dong lớn nhất Sài Gòn để làm các loại bánh gói.


Chợ Ông Tạ được thay bằng chợ Phạm Văn Hai ở cách đó chỉ vài trăm mét (chợ mới được xây trên khu đất nghĩa địa Thánh Minh đã giải tỏa), sau lưng chợ mới hiện nay là khu người Hàn đông đúc nhất Sài Gòn, được gọi là Phố Hàn Quốc trên đường Ngô Thị Thu Minh.

Trước 1975, 2 đường cắt tại Ngã 3 Ông Tạ mang tên là Lê Văn Duyệt – Thoại Ngọc Hầu, và trước năm 1955, nơi này là vùng ngoại ô Sài Gòn rất vắng, chỉ có những ruộng hoang và đầm lầy, rồi trở thành mảnh đất cưu mang nhiều gia đình người Bắc di cư sau hiệp định Geneve năm 1954.

Những người di cư sống ở khu Ông Tạ đa số là những người theo đạo công giáo, vì vậy cũng từ đó có rất nhiều giáo xứ ở khu ông Tạ và khu vực lân cận, như là Nghĩa Hòa, Lộc Hưng, Nam Hòa, Sao Mai, An Lạc, Thái Hòa, Tân Chí Linh, nổi tiếng nhất là Nam Thái. Theo tác giả Cù Mai Công cho biết trong cuốn sách “Sài Gòn Một Thuở”, cộng đoàn giáo dân đầu tiên đến khu Ông Tạ là Cổ Việt, gốc ở huyện Vũ Tiên, hay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Bà con giáo dân Cổ Việt lên tàu há mồm vào Nam vào tháng 8 năm 1954, chỉ 1 tháng sau hiệp định Geneve, đi theo vị linh mục chánh xứ Cổ Việt là Đaminh Vũ Đức Triêm, ban đầu định cư ở Hố Nai (Biên Hòa), nhưng 1 năm sau đó lại dời về khu Ông Tạ. Cha Triêm vốn gốc giáo xứ Cổ Ra (Nam Định), sau đó được thụ phong ở Cổ Việt (Thái Bình). Khi đoàn chiên Cổ Việt đến lập trại ở khu Ông Tạ, một số giáo dân gốc Cổ Ra nhận ra cha Triêm nên rủ nhau theo cha Triêm. Đầu năm 1956, giáo xứ Nam Thái được thành lập, tập hợp những giáo dân của Cổ Việt và Cổ Ra, cái tên Nam Thái được ghép từ tên 2 tỉnh Nam Định và Thái Bình, là quê gốc của giáo dân nơi đây. Giáo xứ Nam Thái bao gồm các địa điểm liên quan đến cái tên Ông Tạ là Ngã 3 Ông Tạ, chợ Ông Tạ, cầu Ông Tạ, và phòng khám ông Tạ.

Trước khi mang tên Ông Tạ, người dân thường gọi đây là Ngã 3 Tháp Canh, nguyên do là tại đây người Pháp đã lập một đồn binh để kiếm soát tuyến đường Thiên Lý đi hướng Cao Miên, cạnh đồn binh này có một tháp canh lớn, nên người dân gọi là Ngã 3 Tháp Canh, sau đó nói gọn lại thành Ngã 3 Tháp. Cái tên này dần dần bị thay thế bằng cái tên Ngã 3 Ông Tạ kể từ khi nơi này bắt đầu có dân di cư sinh sống đông đúc, và có một phòng khám mang tên Ông Tạ nằm cách ngã 3 khoảng 100m được mở vào khoảng đầu thập niên 1950. Ngày nay phòng khám này nằm ở căn nhà số 272 đường Phạm Văn Hai.

Về xuất xứ của tên Ông Tạ, ban đầu vốn chỉ là tên của một vị lương y có phòng khám ở ngã 3 Ông Tạ, sau đó được đặt tên cho một vùng khá rộng tên là khu Ông Tạ, gần tương ứng với phường 3,5 của quận Tân Bình hiện nay. Khu vực này được người ta quen gọi theo tên của ông Tạ ngay từ lúc vị này vẫn còn sống khỏe mạnh, đó là ông Trần Văn Bỉ, một thầy tu tại gia, đồng thời là lương y thuốc Nam mở phòng khám mang tên là Đông y sĩ Thủ Tạ ở ngã 3 Lê Văn Duyệt – Thoại Ngọc Hầu.


Ông Tạ quê ở Mỹ Tho, sinh năm 1918, sau khi tu và học nghề thuốc ở núi Bà Đen thì về Sài Gòn, nhận thấy ở Ngã 3 Tháp Canh có vị trí thuận lợi nên mở phòng khám chữa bệnh bằng cây thuốc nam, chuyên chữa cho trẻ em và phụ nữ. Phòng khám Ông Tạ rất hoành tráng nằm ngay bên Chợ Ông Tạ (nay là hẻm 265 Phạm Văn Hai), không chỉ là nơi khám chữa bệnh quen thuộc của người Sài Gòn xưa, mà bà con các tỉnh lân cận cũng tìm đến, hầu hết là người nghèo. Ông Tạ rất thương người nghèo, ngay cửa phòng khám còn để một thùng bạc lẻ quyên góp cho người khó khăn, và chuyện ông bốc thuốc chữa bệnh không những không lấy tiền mà còn cho tiền ăn, tiền xe cho bà con nghèo ở quê là chuyện bình thường ai cũng biết.

Theo tác giả Cù Mai Công – người đã sống từ nhỏ ở khu Ông Tạ và từng được ông khám chữa bệnh, thì ông Tạ thường bắt mạch với bộ đồ bà ba trắng, dáng đậm thấp, da dẻ hồng hào. Ông khám bệnh rất rẻ nên phòng khám lúc nào cũng đông. Dáng ông bệ vệ như hộ pháp, giọng sang sảng đầy nội lực nhưng lại phúc hậu. Trong phòng khám có ngôi chùa nhỏ, ông Tạ tu tại gia nên đây là nơi để ông hành lễ các nghi thức tôn giáo.

Dù khám bệnh rẻ và lại miễn phí cho người nghèo nhưng ông Tạ vẫn khá giả vì người đến khám rất đông. Sau năm 1975, có một cuộc đổi tiền, mối người chỉ được đổi tối đa 10.000 đồng tiền cũ lấy 200 đồng tiền mới (500 tiền VNCH đổi được 1 đồng tiền mới). Ông Tạ đã mang ra cả bao tiền chia cho người nghèo không có tiền đổi.


Ông Tạ mất năm 1983, hưởng thọ 65 tuổi. Đoàn xe đưa tang ông chạy một vòng từ phòng khám lên ngã 3 Ông Tạ (CMT8 – Thoại Ngọc Hầu), vòng lên ngã 4 Bảy Hiền, xuống Lăng Cha Cả, vòng lại đường Thoại Ngọc Hầu (giữa thập niên 1980 đường Thoại Ngọc Hầu đổi tên thành Phạm Văn Hai), rồi về lại phòng khám, an táng phía sau tư gia.

Sinh thời, ông Tạ không có con nên đã truyền nghề thuốc cho một người cháu và hai con trai của người cháu này. Người cháu ruột cũng đã mất nên hiện nay thương hiệu “nhà thuốc Ông Tạ” thuộc về hai người cháu (gọi ông Tạ là ông) là Nguyễn Văn Huệ ngay nhà ông Tạ và Nguyễn Văn Ðông cũng ở gần đó.

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Giáng Sinh Sài Gòn xưa

Mùa đông chạm cửa Sài Gòn, khi những hàng me hàng phượng bắt đầu trút lá trơ thân gầy. Mùa đông ở Sài Gòn thường đến rất nhanh và đi cũng rất vội. Nó tuy là thời khắc hoài niệm, lãng mạn nhưng lại rất hợp với tốc độ sống nhanh của thành phố này. Nếu ai không kịp đón lấy mùa đông ấy và tận hưởng nhanh chóng, khi cái lạnh bất ngờ qua đi lòng lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Sài Gòn lạnh là cơ hội cho những chiếc áo dài, quần tất hoặc khăn quàng hay mũ len được đưa ra chưng diện và mặc đi làm hay đi ra phố. Ngày thường nhiều cô gái áo sát nách hay váy ngắn tung tăng ngoài phố. Thế nhưng mấy hôm nay, cả các chàng trai mạnh mẽ mỗi ngày cũng trở nên điệu đà khi quàng một chiếc khăn len đi làm hoặc mặc một chiếc áo khoác bên ngoài, đứng xỏ tay túi áo, xuýt xoa hút thuốc lá ở một góc vắng, như cố xua đi cái lạnh dễ thương từ hơi khói của thuốc. Đó có lẽ là những hình ảnh ấn tượng về một mùa đông ngắn ngủi ở Sài Gòn. Nhưng mùa đông rõ rệt nhất, là khi những ngón tay chàng trai cô gái đan lấy nhau, dịu d...

Ecole Yat-Sen: Dòng chữ cuối cùng trên "trường phố" đã biến mất

 Một dãy nhà cũ kỹ lặng lẽ tại góc đường. Dòng chữ "Ecole Yat-Sen" phai mờ trên cao. Những ký tự này ở đây đã tám mươi lăm năm, mang theo một câu chuyện đã lãng quên về một trường tiểu học hiếm hoi của người Hoa ở trung tâm thành phố... Vào những năm thời kỳ đầu của Sài Gòn, khu vực này đa phần người Hoa sinh sống. Họ dựa vào dòng kênh Bến Nghé để buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Lúc này, đường Nguyễn Công Trứ còn được gọi là phố Triều Châu, nơi những người Tiều và người Phúc Kiến sinh sống lẫn với người Việt. Dãy nhà này ra đời từ trước 1940, khi cuộc sống quanh đây ngày càng nhộn nhịp, sôi động. Đó là một trường tiểu học dạy tiếng Hoa hiếm hoi nằm ở trung tâm Sài Gòn. Có thể tưởng tượng khối kiến trúc giản dị, nhỏ nhắn này như một kiểu “trường phố” xịn sò xinh xắn lúc bấy giờ. Trường Tiểu học Tôn Dật Tiên hay Ecole Yat-Sen Ngày nay, không còn tài liệu chính thống nào ở Việt Nam nói về trường tiểu học này nữa, nó đã bị lãng quên thực sự. Tuy nhiên, đây có thể là một cố gắng ch...

Dinh Thượng Thơ

 Dinh Thượng Thơ ( Nha Giám đốc - Nội vụ ) nằm ở đường Lagrandière - Sài-Gòn, nây là đường Lý Tự Trọng. Xây dựng vào năm 1860 và hoàn thành vào năm 1864, được thiết kế bởi Lực lượng Công binh Pháp (Génie Militaire) theo lối kiến trúc Cochinchine. Ảnh được phục chế từ ảnh đen trắng thành ảnh màu theo màu của cuộn film Kodak Gold 200.

Đường Lê Quang Sung

 Xe lam trên đường Lê Quang Sung (xưa là Trương Tấn Bửu) - Phạm Đình Hổ, Quận 6 năm 1992 và góc chụp so sánh với vị trí này năm 5/2016

Nhà máy điện Chợ Quán

 gười Sài Gòn chắc ít ai còn nhớ tới địa danh nầy! Nhà máy điện Chợ Quán ( người Sài Gòn hồi đó hay kêu là Nhà đèn Chợ Quán ). Được xây dựng từ năm 1896 và chánh thức hoặt động vào năm 1912.  Ảnh được phục hồi từ ảnh đen trắng.

Đại lộ Norodom

 Đại lộ Thống Nhứt, từng mang tên là đại lộ Norodom, nay là đường Lê Duẩn, dài chỉ khoảng 2 km, nối từ Thảo cầm Viên tới Dinh Độc Lập (trước năm 1955 mang tên là Dinh Norodom, hoặc Dinh Thống Đốc Nam kỳ, từng là nơi làm việc của các Thống đốc Nam kỳ, hoặc phó Toàn quyền Đông Dương), là con đường quan trọng bậc nhất của Sài Gòn. Thời kỳ 1955 đến 1975, đây là con đường đi thẳng tới phủ tổng thống.

THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ

  THÀNH PHỐ SÀI GÒN – KHU KHÁNH HỘI, PHẦN PHÍA NAM KINH TẺ Trong tiến trình đô thị hóa và mở rộng hành chính đầu thế kỷ XX, khu vực phía nam kinh Tẻ giữ vị trí quan trọng với lịch sử hình thành không gian địa lý – hành chính của thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định. Bản đồ hiện trạng khu vực Khu Khánh Hội không chỉ minh chứng cho sự thay đổi địa giới hành chính mà còn là tư liệu quan trọng giúp truy vết tiến trình phát triển không gian đô thị Sài Gòn. Từ đó, việc nghiên cứu các nghị định và quyết định sáp nhập liên quan giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý đất đai, tổ chức hành chính và động lực mở rộng đô thị ở Nam Bộ trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Nội dung bản đồ thể hiện hiện trạng khu vực phía nam kinh Tẻ, thuộc địa giới thành phố Sài Gòn. Đây là phần diện tích được giới hạn bởi kinh Tẻ ở phía bắc, rạch Ông Đội – rạch Bàng ở phía nam, rạch Ông Lớn ở phía tây. Phần diện tích này được đề xuất sáp nhập vào tỉnh Gia Định, cụ thể là phần phía đông sáp nhập vào làng Tân Thuậ...