Chuyển đến nội dung chính

Khu Chánh Hưng

 Công tác bồi lấp Khu Chánh Hưng

           Trong tiến trình đô thị hóa Đô thành Sài Gòn trước năm 1975, công tác chỉnh trang các khu dân cư tự phát đóng vai trò quan trọng, đặc biệt tại khu vực Quận Tám– một vùng đất còn nhiều kinh rạch và ruộng vườn xen kẽ. Nằm trong chương trình cải tạo đô thị giai đoạn 1965–1968, dự án bồi lấp khu Chánh Hưng thể hiện rõ nỗ lực của chính quyền Đô thành trong việc tái thiết không gian sống cho cộng đồng lao động nghèo. Tư liệu bản đồ và hồ sơ quy hoạch còn lưu giữ đã phản ánh phần nào quy mô và định hướng phát triển khu vực này trong bối cảnh lịch sử cụ thể.


          Công tác chỉnh trang gia cư ở Đô thành Sài Gòn được tổ chức nhằm tái cấu trúc hoặc bổ sung những công trình xây dựng mới cho các khu dân cư tự phát trước đó, điển hình là các khu dân cư được chỉnh trang ở Quận Tám. Đây là một quận nằm phía nam kinh Bến Nghé, phần lớn là nông thôn, còn khá nhiều ruộng vườn xen lẫn kinh rạch, hạ tầng rất kém. Dân cư chủ yếu là các hộ lao động nghèo, tình trạng mất vệ sinh rất trầm trọng. Để khắc phục, đồng thời đưa khu vực từng bước đô thị hóa, chính quyền tổ chức nhiều đợt chỉnh trang. Giai đoạn 1965-1968, chỉnh trang khu nghĩa địa Chánh Hưng, khu nghĩa địa Hưng Phú, xây dựng Ký nhi viện Hưng Phú, chỉnh trang khu Sở rác Đô thành…

           Tiêu biểu là phần chỉnh trang khu Rạch Ông (Quận Tám) do Tổng Cuộc phát triển gia cư tổ chức thực hiện. Công trình nằm bờ nam Kinh Đôi và giới hạn bởi rạch Ông Lớn* ở phía đông, rạch Ông Nhỏ*** ở phía tây, phía nam giáp với tỉnh Gia Định. Đây là khu vực thuộc phường Rạch Ông (Quận Tám), nguyên thuộc làng Chánh Hưng, cổ hơn nữa là các làng Tứ Xuân, Bình Xuyên và Khánh Bình, tổng Dương Hòa Trung. Cư dân chủ yếu là dân nghèo các nơi đổ về suốt một thời gian dài. Thậm chí còn có cả người dân gốc Tourane đến Sài Gòn qua cuộc chiến năm 1859, một phần nhỏ họ đã đến định cư tại vùng Rạch Ông Lớn.

​         Khu vực có tổng diện tích tự nhiên lên đến 1,3km2 với nhiều ao hồ tù đọng khá sâu cần san lấp nhằm đưa dân cư vào ở. Tại thời điểm năm 1965 đã có một số tuyến đường chính vào khu vực như đường Phạm Thế Hiển, đường nối Cầu Chữ Y cùng một số tuyến nhánh nằm bên trong như đường Dương Bá Trạc, Âu Dương Lân. Nội dung xây dựng cho thấy công việc chủ yếu là san nền cải tạo ao hồ và xây dựng các tuyến đường chính theo quy hoạch chia khu vực thành những ô phố nhỏ. Tổng khối lượng san nền dự kiến khoảng 90.000m3.

        Công trình triển khai suốt một thời gian dài, tuy nhiên kết quả nhận được chưa nhiều. Sự thiếu hụt tài liệu không cho phép chúng ta đưa ra kết quả cuối cùng. Tuy nhiên, có thể đánh giá sơ bộ từ năm 1965-1975, khu vực chỉnh trang Rạch Ông đã được đô thị hóa khoảng 50% diện tích. Đáng chú ý, tuyến kinh Xáng được đào ở giai đoạn này và đi trên ranh giới Đô thành Sài Gòn-tỉnh Gia Định.

         Đây được xem là một dự án chỉnh trang điển hình ở Đô thành Sài Gòn trước năm 1975, đạt những hiệu quả rõ rệt, mang lại một diện mạo mới cho khu vực phường Rạch Ông (nay thuộc các Phường 1, 2, 3 - Quận 😎

Chú thích: (*) và (***) nguyên là Rạch ong lớn (đại phong đà) và Rạch ong nhỏ (tiểu phong đà)

Nguồn: Hồ sơ số 127, Phông Tổng Cuộc phát triển gia cư, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.

Nhận xét

Xem nhiều nhất

Kể chuyện kinh cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975 - phần II

  3-  Cầu trên rạch phiá Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bải Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua  quận 1  thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại , kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905. Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois  (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ. Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng-Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi. Rạch Bến Nghé chảy về phiá Tây thì gặp Rạch Lò Gốm h...

Xe Coca Cola

 Xe Coca Cola

Xe bus đưa rước trường Khải Minh

 Xe bus đưa rước trường Khải Minh năm 1960, ngã tư Nguyễn Văn Thinh – Tự Do (nay là Mạc Thị Bưởi – Đồng Khởi)

Nɡã tư Bảy Hiền

 Nɡã tư Bảy Hiền là một địa danh quеn thuộc của nɡười Sài Gòn trước νà sau năm 1975. Nɡày nay, nɡã tư Bảy Hiền thuộc phườnɡ 11, quận Tân Bình, là đầu mối ɡiao thônɡ quan trọnɡ của khu νực Tây Bắc, kết nối 4 con đườnɡ huyết mạch toả đi các quận huyện: Cách Mạnɡ Thánɡ Tám (xưa là đường Lê Văn Duyệt), Trườnɡ Chinh (xưa là đường Phạm Hồng Thái), Hoànɡ Văn Thụ (Võ Tánh xưa), Lý Thườnɡ Kiệt (Nguyễn Văn Thoại xưa) Toàn cảnh khu Bày Hiền năm 1967, ngã 4 ở góc trái bên dưới. Bên trái ngã tư là đường Nguyễn Văn Thoại (nay là Lý Thường Kiệt), bên phải là đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ). Bên dưới là đường Lê Văn Duyệt (nay là CMT8), bên trên là Phạm Hồng Thái (nay là Trường Chinh). Khu đất góc trái phía dưới sau đó đã xây lên bệnh viện Vì Dân vào năm 1971. Sau năm 1975, bốn con đườnɡ tạo nên nɡã tư Bảy Hiền đã manɡ tên mới. Trục đườnɡ chính từ Sài Gòn – Gia Định νề Lonɡ An, Tây Ninh xuyên qua nɡã tư Bảy Hiền được đổi từ hai tên Lê Văn Duyệt νà Phạm Hồnɡ Thái thành Cách Mạnɡ Thánɡ Tám và T...
 Hình ảnh Tịnh Xá Trung Tâm của Hệ phái Khất sĩ Việt Nam

Đường Ngô Tùng Châu

 Một góc đường Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng) ở gần Ngã 6 Phù Đổng

Trạm xe bus trung tâm đối diện chợ Bến Thành

 Trạm xe bus trung tâm đối diện chợ Bến Thành. Cái bệ có trụ tròn ở giữa (sơn màu trắng xanh) cạnh bên cô gái áo dài là cái trụ đèn giao thông di động. Có lẽ đây là cái trụ đèn giao thông duy nhất có bánh xe và cùng tham gia giao thông với xe cộ ở Saigon xưa… Trên vòng xoay công trường Diên Hồng (bùng binh chợ Bến Thành) – Trạm xe buýt trung tâm Sài Gòn 1962 – Bus Station – Trạm xe buýt trung tâm Saigon